Ba ba có vị mặn, tính hàn, không độc vào 3 kinh can, phế và tỳ, công dụng: Bổ âm, ích khí, thanh nhiệt, tán kết, nhuận táo, giảm đau, điều kinh.
─────
- Tên khoa học: Trionyx sisnensis Wegmann
- Tên khác: Ba ba trơn, cua đinh, thủy ngư
- Tên tiếng Trung: 鳖甲
- Họ: Ba ba (Trionychidae)
─────
Ba ba phân bố ở các vùng nước ngọt thuộc Đông Nam Á, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, châu Phi và Bắc Mỹ. Ở Việt Nam, ba ba sống ở nước ngọt các ao, hồ, sông, đầm, tỉnh nào cũng có. Ở dưới nước, nó bơi rất nhanh, lặn được lâu, khi lên cạn, lại chậm chạp, vụng về. Thức ăn là giun, cá nhỏ, ốc, tôm, đôi khi cả cây cỏ thủy sinh. Đẻ trứng ở cát gần mép nước. Hiện nay, ba ba đang được nuôi nhiều - ở quy mô hộ gia đình.
Ba ba là loài bò sát ba móng, loài nhỏ dài khoảng 20cm, loài to có thể đến 0,5 - 1m. Thân gồm phần lưng là một mai hình khum, rộng có những vết khoang hình lục giác, mép có riềm mỏng màu xám đen. Phần bụng là một phiến phang không liền với mai. Đầu nhỏ có những vảy nhỏ hình nhiều cạnh, cổ dài co rụt dễ dàng. Chân có 4 cái, chân trước dài hơn chân sau.
Ba ba (vị thuốc miết giáp)
─────
Mai ba ba là bộ phận dùng chủ yếu.
Người ta bắt ba ba vào các tháng 3 - 9, đem về, đập chết, tách lấy mai (mai này dùng tốt hơn); nhưng vì khó bảo quản và sơ chế nên thông thường, người ta cho cả con vào nồi nước, đun sôi trong 1 - 2 giờ, vớt ra, gỡ lấy mai. Mai này để nguyên hoặc ngâm nước phèn (20g phèn cho 1 kg mai), rồi cạo sạch thịt còn dính, phơi khô.
Loại mai to bản, dày, cứng chắc, không sót thịt là loại tốt. Ít khi dùng sống, mà thường chế biến sao tẩm theo cách sau:
Ngâm mai vào nước gừng rồi phơi khô. Sao với cát nóng cho hơi vàng, tẩm vói giấm (tỷ lệ 1,5 kg giấm cho 5 kg mai), rửa sạch, phơi khô, cắt nhỏ. Hoặc ngâm mai vào nước tro bếp trong một đêm, lấy ra rửa sạch, tẩm rượu rồi cắt nhỏ, nấu với nước sôi liên tục trong một ngày, đêm. Chắt lấy nước thứ nhất. Thêm nước, tiếp tục nấu để được nước thứ hai, thứ ba. Gộp các nước chắt lại, lọc rồi cô thành cao đặc (miết giáp cao).
Bảo quản các sản phẩm ở nơi khô ráo, tránh sâu mọt.
Còn dùng thịt, máu, mỡ và trứng của ba ba.
─────
Mai ba ba chứa chất đạm, keratin, iod và vitamin D.
Ba ba có vị mặn, tính hàn, không độc vào 3 kinh can, phế và tỳ. Công dụng: Bổ âm, ích khí, thanh nhiệt, tán kết, nhuận táo, giảm đau, điều kinh.
- Mai ba ba có tên thuốc trong y học cổ truyền là miết giáp, miết xác hay thủy ngư xác, được dùng chữa chứng suy nhược gầy yếu, lao lực quá độ, đau lưng, mỏi gối, ho hen lâu ngày, mồ hôi trộm, kinh nguyệt khó khăn, sốt rét.
Ngày uống 10 - 20g dược liệu tán bột hoặc 6 - 10g cao, chia làm hai lần. Để chữa sốt rét lâu ngày sinh báng, có thể chiêu thuốc với rượu hoặc hòa thuốc với sữa cho trẻ uống lại chữa trẻ em bị sốt cao, co giật.
Theo tài liệu cổ, mai ba ba đốt tồn tính (4g) uống với nước ép lá nhót tươi (50g) chữa hen suyễn, thở gấp ở trẻ em (Nam dược thần hiệu). Mai ba ba (30g) phối hợp với xuyên sơn giáp (5g), sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm hai lần trong ngày, chữa viêm gan, xơ gan (tài liệu nước ngoài).
Chú ý: Những người không có nhiệt, tỳ vị hư yếu, tiêu chảy, phụ nữ có thai không được dùng.
- Thịt ba ba (miết nhục) là thuốc bổ dưỡng chữa lưng gối đau mỏi, đái nhiều về đêm, nóng trong, ra nhiều mồ hôi ở người cao tuổi. Phụ nữ ăn được nhiều thịt ba ba có thể chữa băng huyết, khí hư. Đối với trẻ em, thịt ba ba có tác dụng tốt chống suy dinh dưỡng, gầy yếu, kém ăn. Dạng dùng thông thường là nấu cháo hoặc hầm nhừ mà ăn.
Theo kinh nghiệm dân gian, thịt ba ba nấu với ngó sen có tác dụng cầm máu trị rong kinh, băng huyết và nấu với chân giò lợn, táo tàu để lợi sữa.
Theo tài liệu nước ngoài, thuốc bổ âm, ích huyết, hạ huyết áp gồm thịt ba ba (50g), râu ngô (5g), sơn tra (4g), táo đỏ (2 quả); tất cả thái nhỏ, nấu với nước cho dừ nhuyễn thành cháo, thêm gia vị gừng, hành và muối (vừa đủ). Ăn làm một lần trong ngày. Cách 2 ngày, ăn một lần.
Chú ý: Không ăn thịt ba ba với trứng gà, rau rền, các loại thịt khác, rau kinh giới, có thể sinh lở ngứa.
- Máu ba ba (miết huyết) có tác dụng chữa choáng váng, hoa mắt, phục hồi sức khỏe nhanh, rất tốt cho người mới khỏi bệnh, người cao tuổi. Máu hứng được khi cắt cổ ba ba, cho ngay vào ít rượu, hâm nóng mà uống. Người ta cho rằng máu ba ba pha với mật ong có thể chữa bệnh tim mạch, hen suyễn, đường ruột.
Chú ý: Người bị bệnh cao huyết áp không dùng máu ba ba.
Ngoài ra, trứng ba ba (miết noãn) chữa được chứng kiết lỵ mạn tính (lấy lòng đỏ rán không dùng mỡ) và bệnh trĩ (dùng lòng trắng bôi). Mỡ ba ba (miết cao) rán cho chả nước, dùng bôi ngoài chữa bỏng, mụn nhọt, lở loét.
─────
- Mai ba ba, trần bì (vỏ quýt), binh lang (hạt cau), nga truật, tam lang, thanh bì, ô mai, thảo quả, sa nhân, bán hạ chế (mỗi vị 20g), thường sơn (40g).
- Tất cả đem thái nhỏ, ngâm với 1 lít rượu và 1 lít giấm trong một ngày, một đêm. Đun cho cạn hết dung dịch, lấy dược liệu ra phơi khô, sao giòn, tán và rây thành bột mịn, rồi trộn vối hồ làm viên bằng hạt đậu xanh. Người lớn uống 30 - 40 viên làm một lần với nước ấm trước khi lên cơn khoảng 2 giờ. Trẻ em từ 5 đến 10 tuổi uống 10 - 20 viên; 11 tuổi trở lên, 20 - 30 viên. Liều dùng cho một ngày.
Hoặc mai ba ba (tẩm giấm, nướng vàng); thảo quả (sao cháy vỏ ngoài lấy hạt), vỏ quả chanh, hạt cau nhà hay cau rừng (mỗi vị 30g); cành lá cây cam thìa (100g, tẩm rượu, sao vàng); rễ hà thủ ô trắng (50g); lá thường sơn (50g, ngâm nước gạo, tẩm rượu, sao vàng); hậu phác (20g), cam thảo (20g, sao qua).
Tất cả phơi khô, tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày uống hai lần vào trước bữa ăn 1 giờ, mỗi lần 4g với nước đun sôi để nguội đối với người lớn. Trẻ em tùy tuổi dùng ít hơn. Thời gian điểu trị khoảng 1 tháng.
Mai ba ba đốt tồn tính, tán nhỏ, rây bột mịn, lá nhót tươi 50g, rửa sạch, ép lấy nước đặc. Mỗi lần uống 4g bột mai với nước ép lá nhót.
3. Chữa đau lưng, không cúi xuống, không ngữa được:
Miết giáp sao vàng hay nướng chín, tán nhỏ, ngày uống 2 lần, mỗi lần 5g. Bài thuốc này còn dùng chữa sỏi thận.
4. Chữa hao gầy, đau lưng, nhức xương, lao lực quá độ, khí huyết ngưng trệ, mồ hôi trộm, tiểu tiện ra sỏi, kinh nguyệt bế, sốt rét.
Mỗi ngày uống 10-20g bột hoặc 6-10g cao, chia làm hai lần. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.
5. Chữa hen:
Máu Ba ba cho vào rượu uống (Tham khảo)
Mai ba ba (30g) tán nhỏ, rây bột mịn, nhồi vào bụng một con chim bồ câu (đã làm thịt). Hấp cách thủy cho dừ nhuyễn. Thêm gia vị và ít rượu, ăn hết trong một ngày.
Mai ba ba 30g, vảy tê tê 5g, cắt nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày.
Thanh cốt tán (Chứng trị chuẩn thằng):
Miết giáp 20g (sắc trước); Ngân sài hồ, Địa cốt bì, Tri mẫu mỗi vị 12g; Thạch cao, Tần giao mỗi vị 8g; Hồ Hoàng liên, Cam thảo mỗi vị 4g, sắc uống.
Kiêng kỵ:
- Người bị âm hư Vị nhược hoặc không muốn ăn uống thường hay nôn oẹ thì đều kiêng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
- Âm hư, không có nhiệt, Vị hư nôn mửa, Tỳ suy, tiêu chảy, có thai: không dùng (Thực Dụng Trung Y Học).
─────
Người ta chế biến mai ba ba theo hai cách sau:
- Ngâm mai vào nước gừng rồi phơi khô. Sao với cát nóng hoặc nướng chín đến khi mặt ngoài hơi vàng, lấy ra tẩm sơ qua với giấm (tỷ lệ 1,5lít giấm cho 5kg mai), rửa sạch, phơi khô. Bảo quản nơi khô ráo, tránh sâu mọt.
- Nấu cao: Ngâm mai vào nước tro bếp (tro rơm rạ hay củi) trong một đêm, lấy ra rửa sạch, tẩm rượu (có thể ngâm rượu gừng với tỷ lệ 50g gừng cho 1 lít rượu 40o) rồi cắt nhỏ, nấu với nước luôn sâm sấp và sôi liên tục trong một ngày, một đêm. Chắt lấy nước thứ nhất. Thêm nước, tiếp tục nấu để được nước thứ hai, thứ ba. Gộp các nước chắt lại, lọc kỹ, cô thành cao đặc ở nhiệt độ 70oC trở lên được miết giáp cao. Cao tốt phải có hai lớp khi cắt ngang, lớp trên có màu nâu hơi vàng bóng, lớp dưới có màu nâu đen, mùi thơm, không tanh.