Tên thường gọi: Còn gọi là Điệp tây, Cây vông đồng, sablier.
Tên khoa học: Hura crepitans L
khoa học: Thuộc họ thầu dầu Euphorbiaceae.
Cây to, thân có gai. Lá hình tim hơi ba cạnh, mép có răng cưa, đầu nhọn, dài 20-30cm, rộng 15-20cm. Hoa đực mọc thành bông nhiều hoa, hoa cái mọc đơn độc. Quả nang, to cứng, gồm chừng 12-20 mảnh hình múi nổi tròn, cao 5cm, rộng 10cm. Khi chín thì bật vỡ rất mạnh, phóng hạt đi khá xa. Hạt hình mắt chim, trên phủ lớp lông, vỏ cứng của hạt bao quanh hạt thành một gờ chừng 1cm.
Phân bố, thu hái và chế biến Cây ba đậu tây vốn nguồn gốc ở những nước nhiệt đới châu Mỹ nhưng hiện nay được trồng phổ biến ở hầu hết những nước nhiệt đới làm cây bóng mát ven đường và vườn hoa. Thường người ta dùng hạt để ép dầu và nhựa mủ dùng làm thuốc.
C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC
Trong hạt có 37,1% chất dầu béo, 25,63% chất protein. Ngoài ra người ta còn cho rằng trong hạt còn một chất tõin độc nhưng chưa được nghiên cứu sâu. Vỏ thân và nhựa mủ chứa một chất có tác dụng diệt trừ sâu bọ nhưng chưa thấy tài liệu nghiên cứu.
Tác dụng dược lý: Tác dụng gây tẩy và gây nôn: Hạt ba đậu tây, dầu chiết từ hạt, vỏ thân và nhựa từ vỏ thân có tác dụng gây tẩy và gây nôn rất mạnh. Dùng quá liều sẽ gây đi ngoài ra máu, nhiễm độc nặng và có thể chết người.
Tác dụng độc: Hạt, dầu hạt, vỏ thân, nhựa mủ đều rất độc, có tác dụng diệt sâu bọ, đặc biệt chất crepitin có độc tính rất cao. Nếu dính vào da, có thể gây rộp da, bắn vào mắt gây tổn thương mắt và có thể bị mù.
D. TÍNH VỊ VÀ CÔNG DỤNG
Công dụng và liều dùng Vỏ cây ba đậu tây được dùng làm thuốc tẩy, gây nôn, trị táo bón, u bướu và hủi. Ngày 1-4g sắc uống hoặc nấu cao.
Ở nước ta thấy ít dùng dầu va nhựa cây này làm thuốc. Nhưng tại Congo (châu Phi) người ta dùng hạt cây làm thuốc với liều hai đến ba hạt trong một ngày, nhưng với liều cao hơn có thể gây ngộ độc có thể gây chết người.
Nhựa cây ba đậu tây cũng độc, nếu vô tình để nhựa bắn vào mắt có thể gây sưng đỏ mắt. Tại Giava (Inđônêxya) người ta dùng nhựa cây làm thuốc trừ sâu. Tại Braxin người ta dùng nước sằc vỏ thân với liều 1 đến5g chữa hủi, nước sắc này còn có tác dụng tẩy mạnh.
Mặc dầu trong hạt có nhiều dầu nhưng cho đến nay còn ít khai thác vì bã sau khi ép chỉ dùng để làm phân bón do có chất gây tẩy và độc không thể làm thức ăn cho gia súc, mặc dầu hàm lượng protein cao.
Do cây dễ trồng, hàm lượng dầu và protein cao, cây có nhiều triển vọng trồng để làm phân hữu cơ.
Dầu hạt được dùng để chế xà phòng. Bã hạt sau khi ép lấy dầu chì được dùng làm phân bón, không được dùng làm thức ăn cho gia súc, mặc dù có hàm lượng protein cao vì độc. Để trừ mụn nhọt và các bệnh ngứa lở ngoài da, lấy vỏ tươi ba đậu tây giã nát đắp ngoài.
Ở Pêru, lá cây phơi khô, cuộn thành điếu hút để chữa hen. Nhựa cây chấm vào chỗ sâu răng chữa đau răng.
E. NHỮNG CHÚ Ý KHI DÙNG
Toàn cây, nhựa, vỏ thân, hạt đều rất độc, khi dùng phải hết sức thận trọng; người không có kinh nghiệm không nên dùng.