Khi nhắc đến các loài rắn hổ mang ai cũng phải khiếp sợ về khả năng giết chết con mồi của loài vật nguy hiểm này. Nếu không biết cách sơ cứu khi bị các loài hổ mang tấn công, chúng ta rất dễ bị thiệt mạng trong 1 thời gian vô cùng ngắn. Bài viết hôm này, tôi sẽ giới thiệu đến các bác cây thuốc được cho là khắc tinh của loài rắn hổ mang, loài cây này có tên Nghể răm, mọc hoang rất nhiều ở những nơi ẩm ướt, dưới bờ ruộng, ven suối, khe nước chảy...
- Tên khoa học: Polygonum hydropiper L. - Persica hydropiper (L.) Spach
- Họ khoa học: Polygonaceae
- Tên khác: Răm nước, Thủy liễu, Rau nghể, Mã liễu, Phiắc phíe (Tày).
Nghể răm thuộc dạng cây thân thảo, chiều cao từ 30 - 60cm, sống hàng năm. Thân mọc đứng, phân nhiều nhánh, có dóng dài và nhẵn. Lá mọc so le, hình mũi mác hẹp, có cuống rất ngắn, gốc tròn, đầu thon nhọn, dài 4 - 6cm, rộng 1 - 1,3cm, hai mặt nhẵn hoặc có ít lông ở gân chính và ở mép, mặt trên đôi khi có vết rám hình chữ V; bẹ chìa mỏng, có lông.
Cây nghể răm
Cụm hoa mọc ở ngọn thân và kẽ lá gần ngọn thành bông dài và mảnh, thường cong xuống ; lá bắc hình phễu, có lông ở mép; hoa màu đỏ; bao hoa có 4 phiến có điểm tuyến (đôi khi 3-5); nhị 6, thọt.
Chú ý: Có ít nhất 2 loại nghể răm: 1 loại thân tía cho hoa màu tím, 1 loại thân trắng cho hoa màu trắng.
Quả hình bầu dục, bóng, đôi khi có 3 cạnh, có bao hoa tồn tại.
Mùa ra hoa quả từ tháng 9-12.
Tính vị, tác dụng của nghể răm:
- Lá nghể răm tươi có vị cay thơm, tính nóng, có tác dụng tiêu tích trệ, sát khuẩn. Dùng toàn cây phơi hoặc sấy khô.
- Thân và lá nghể răm được dùng làm thuốc trừ giun, nhuận tràng, thông tiểu, chữa rắn cắn. Liều dùng mỗi ngày 8 - 12g cây khô sắc uống, hoặc 20 -30g cây tươi giã, thêm nước và gạn lấy nước uống. Nghể răm tươi 40 - 60g sắc uống chữa lỵ trực khuẩn, viêm ruột và phong thấp sưng đau.
- Để chữa chốc ghẻ, lở ngứa ngoài da, dùng nghể răm tươi nấu nước tắm và bã xát chỗ ghẻ ngứa.
- Cao lỏng nghể răm còn được dùng làm thuốc ngừa thai (Y học dân gian Ấn Độ). Nước sắc của cây điều trị các rối loạn của tử cung và cầm máu. Lá được nhai để chữa đau răng. Rễ có tác dụng kích thích, lợi tiểu, gây trung tiện, trừ giun. Bột khô của cây rắc vào quần áo để trừ nhậy.
1. Chữa rắn cắn:
- Nghể răm dùng sơ cứu khi bị rắn hổ mang cắn: Khi bị rắn hổ mang cắn cần garo ngay vết thương, lấy ngay 1 nắm lá nghể răm giã hoặc nhai lấy bã đắp vào vết cắn. Sau 30 phút bỏ thuốc ra rửa bằng nước sắc hoa, lá cây mào gà đỏ, rồi lại đắp lá nghể răm. Trong thời gian đắp thuốc và rửa, kết hợp ăn trái đu đủ xanh cả vỏ.
- Nghể răm kết hợp với các vị thuốc khác: Garo vết thương, rồi dùng bài thuốc:
+ Nghể răm...........25 ngọn,
+ Lá phèn đen.......25 lá,
+ Thuốc lào..........1 điếu (viên tròn bằng hạt ngô),
+ Rễ cà gai leo.......15g.
Cả bốn vị giã nhỏ, thêm một bát nước đun sôi để nguội, lọc lấy nước, cho vài hạt muối vào, chia làm 3 lần uống trong ngày.
Bã đắp vào vết rắn cắn. Thời gian điều trị chừng 3-4 ngày.
2. Chữa chứng phong khí, mẩn ngứa: Lá nghể răm , lá bổ hòn, lá ké, lá thuốc bỏng, nấu với nước để xông và tắm.
3. Chữa vết thương: Lá nghể răm giã nát, cho vào một ít nước, rịt vào vết thương.
Lá cây nghể răm
4. Chữa viêm ruột lỵ:
Ké hoa vàng, Mã đề, mỗi vị 30g, Nghể răm 15g, sắc nước uống, ngày 1 thang.
1. Phân bố, sinh thái:
Polygonum L. là chi lớn gồm các loài phân bố rộng rãi khắp thế giới. Ở Việt Nam có 30 loài (Nguyễn Tiến Bân, 1997), trong đó có gần 20 loài được dùng làm thuốc (Võ Văn Chi, 1996).
Nghể răm là loài phân bố rộng khắp vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới châu Á (Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia, PhilippinSrilanca, Bangladesh, Indonesia, Campuchia, Lào, Việt Nam...) và một phần lãnh thổ ở châu Âu.
Ở Việt Nam, nghể răm có mặt ở khắp mọi nơi từ đồng bằng đến miền núi. Cây ưa sáng và đặc biệt ưa ẩm, nên thường mọc trên đất lầy thụt ở ruộng nước, bờ ruộng, ao, suối, kênh rạch…. Cây sinh trưởng gần như quanh năm, mạnh nhất vào mùa mưa ẩm, ra hoa quả nhiều; đẻ nhánh từ gốc và phân cành khoẻ.
Nghể răm ở Việt Nam được coi là loài cỏ dại, không có giá trị về mặt kinh tế, nhiều khi còn ảnh hưởng đến cây trồng.
2. Thành phần hoá học:
Toàn cây chứa các chất thuộc nhiều nhóm thành phần hoá học khác nhau:
Flavonoid 2 - 2,5% trong đó có quercetin, quercitrin, kaempferol, rutin, hyperosid (quercetin - 3 - galactosid), rhamnacin, rhamnacin kali bisulfat monoester, persicarin (isorhamnetin – 3 – kali bisulfat ester), persícarin – 7 – methyl – ether).
Theo một số tác giả, lá chứa nhiều flavonoid : quercetin – 3 – sulfat, isorhamnetin – 3,7 – disulfat và tamarixetin – 3 – glucosid – 7 – Sulfat ( Yagi Akữa và cs 1994), 7, 4′ – dimethylquercetin, 3’ – methyl quercetin, quercetin, isoquercitrin (Haraguchi Hừoyulci và cs, 1992).
Tính chất chống oxy hoá của một số flavonoid được sắp xếp theo thứ tự từ mạnh đến yếu : isoquercitrin > 7, 4’ – dimethylquercetin > quercetin > 3′ – methyl quercetin.
Tinh dầu 0,30 – 0,35% trong đó 1 chất chiếm 28,40% (thân), 29,00% (lá) và 1 chất 27,65% (thân) và 27,78% (lá). Các thành phần khác có trong tinh dầu thân và lá là: (humulen (theo thứ tự 7,06%, 7,14%), một chất có trọng lượng phân tử 218 (4,62%, 4,51%), một sesquiterpen alcol (4,86%, 4,89%) và curcumen (2,5%, 2,53%) (N.x Dũng và CS, 1994).
Tanin, acid hữu cơ (acid formic, acid acetic, acid valeric, acid malic, acid melissic).
Ngoài ra, còn có vitamin K, polygopiperin, alcaloid, sesquiterpen (acid polypiperic, polygodial 0,08%). (The Wealth of India VIII, 1969; CA 124: 284.344s; CA 122: 51.449y; CA 120: 48.066x).
3. Tác dụng dược lý:
Gia súc ăn cây nghể răm bị viêm đường tiêu hoá và đái ra máu. Nghể răm gây viêm da tiếp xúc cả ở người và gia súc. Nước ngâm 5% nghể răm diệt 80% bọ gậy hoặc 50% dòi sau 3 ngày. Nghể răm kích thích co bóp tử cung.
Cao chiết với ether và acid của cây nghể răm có tác dụng kháng khuẩn. Nghể răm có tác dụng kích thích, lợi tiểu, làm săn, điều kinh và làm tan sỏi; hoạt tính của rễ mất đi khi sấy khô.
Nghể răm có tác dụng nhuận tràng và chống lại độc lực của nọc rắn mang bành ở mức độ nhất định, nâng cao tỷ lệ sống hoặc kéo dài thời gian cầm cự cho động vật được tiêm nọc rắn. Rễ nghể răm, dưới dạng cao chiết với dầu hoả, cồn và nước cho thỏ uống với liều 100mg/kg trong 3 ngày, có tác dụng ức chế rụng trứng gây bởi acetat đồng (4mg/kg, tiêm tĩnh mạch một lần) ở thỏ với tỷ lệ 60%, 20%, 20% tương ứng. Cao rễ nghể răm chiết với dầu hoả cho chuột cống trắng cái uống liều 100mg/kg trong những ngày 1- 5 sau khi giao hợp đã ức chế thụ thai 100%. Rễ nghể răm không có tác dụng chống sinh sản ở giai đoạn mang thai muộn.
Ở Liên Xô cũ đã công nhận nghể răm là một vị thuốc chính thức, dùng dưới hình thức cao lỏng, thuốc pha làm thuốc săn, cầm máu, dùng trong những trường hợp băng huyết trong sản khoa. Liều dùng cao lỏng: 30 - 40 giọt. ngày uống 3 - 4 lần.
Ở Việt Nam thân và lá được nhân dân dùng làm thuốc chữa giun, nhuận tràng, thông tiểu, chữa rắn cắn. Gần đây nhân dân Trung Quốc và Việt Nam phát hiện thấy nghể có tác dụng diệt dòi và bọ gậy: nước ngâm 5% diệt 80% bọ gậy hoặc diệt 50% dòi sau 3 ngày (72 giờ). Bọ gậy sẽ sinh ra muỗi dòi sẽ sinh ruồi
*Nguồn: Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam.