Trong chiến tranh chống Mỹ, bộ đội ta đã biết dùng đến cây Ráy leo lá rách để cứu chữa cho những bệnh nhân bị thương phần mềm, đây là một kinh nghiệm rất hay được truyền lại cho thế hệ sau.
─────
- Tên thường gọi: Ráy leo lá rách
- Tên khác: Chuối hùm, Cuổi hùm (Tày), Co mác ngùm (Thái), Lân tơ uyn, Đuôi phượng, Chuối hương lá xẻ, Dây xống rắn.
- Tên khoa học: Raphidophora decursiva (Roxb.) Schott
- Họ khoa học: Thuộc họ Ráy (Araceae)
─────
Ráy leo lá rách là cây mọc hoang tại các tỉnh miền núi khắp nước ta, chỉ thấy mọc trên đá hoặc thân cây lớn, chưa bao giờ thấy cây này mọc ở đất. Với khả năng sinh trưởng mạnh nên ráy leo lá rách có thể tạo thành những đám lớn trong rừng. Cây thuộc dạng thân thảo leo, chiều dài thân có thể lên đến 20m.
Thân và cành màu xanh lục, hình trụ, mập, nhẵn, có đốt, rễ mọc dài từ các mấu bám vào thân các cây to. Lá to, mọc so le, hình trứng, màu lục sẫm hoặc đốm vàng, gốc hình tim, đầu nhọn, phiến xẻ thùy dạng lông chim đến tận gân chính (lá như bị rách), mỗi bên có khoảng 10-15 thùy hình dải, gốc hẹp lại và thủng lỗ; cuống lá mập, dài bằng lá hoặc dài hơn. Với đặc điểm trên mà người ta phân biệt cây này với cây ráy leo lá lớn.
Cụm hoa là một bông hình trụ, màu lục nhạt, bao bọc trong một mô nạc, hình trái xoan thuôn, màu vàng ở cả hai mặt, nhạt hơn ở mép, sớm rụng (trông tựa cái hoa chuối, nên người Tày gọi là cây chuối hùm); hoa nhiều, lưỡng tính, không có bao hoa, có hình 6 cạnh (nhìn từ trên xuống); nhị 4, bao phấn hình tim thuôn; bầu 2 ô, đầu nhụy màu vàng nhạt.
Cụm hoa cây ráy leo lá rách
Quả mọng, khi chín màu đỏ da cam, chứa nhiều hạt, quả ăn được. Mùa hoa quả từ tháng 7-9.
Trong tự nhiên người ta nhận thấy trên thế giới Chi Raphidophora Hassk có 120 loài, phân bố rải rác ở vùng nhiệt đới, từ Tây Phi sang châu Á đến Bắc Australia. Ở Việt Nam có 14 loài, trong đó có 4 loài được dùng làm thuốc hoặc trồng làm cảnh, trang trí nội thất như R.decursiva (Roxb.) Schott, R. hongkongensis Schott, R. hookeri Schott và R. megaphylla H. Li (Nguyễn Văn Dư, 2000).
─────
Thân, rễ, lá. Trong đó thân được dùng nhiều hơn cả.
─────
Ráy leo lá rách có vị đắng, tính hàn; có tác dụng hoạt huyết tán ứ, giảm đau, cầm máu, tiếp cốt tiêu thũng, thanh nhiệt giải độc, chống ho, trừ thấp. Người ta cũng đã xác định được là nước sắc ráy leo lá rách có tác dụng kháng sinh đối với vi trùng Staphylococcus aureus, Streptomyces pyogenes, Pseudomonus aeruginosa và Bacillus subtilis.
Cây ráy leo lá rách trong tự nhiên
─────
Đây là kinh nghiệm của đồng bào tỉnh Gia Lai, Kon Tum, dùng lá, thân giã nát, đắp lên phần thương hở, có tác dụng liền vết thương, giảm đau khá tốt.
Nhiều đơn vị quân đội đã dùng cây này để chữa lành vết thương cho bộ đội ta trong kháng chiến chống Mỹ. Theo nguồn thông tin đáng tin cậy thì bác sĩ Lê Khắc Lập đã dùng ráy leo lá rách điều trị cho 357 trường hợp vết thương phần mềm, đạt kết quả tốt .
Cây này tốt cho các vết thương phần mềm có miệng rộng, nếu là vết thương chột, miệng nhỏ thì phải rạch rộng, cắt lọc tốt rồi mới dùng; các vết bỏng độ II và III được điều trị có kết quả rõ rệt.
Khi dùng cần lưu ý: Không nên dùng cây này khi gặp vết hương chột, miệng nhỏ, còn dị vật ở sâu bên trong vì sẽ làm cho vết thương chóng liền miệng, làm ứ đọng mủ trong sâu. Muốn dùng cần lấy dị vật, rạch miệng vết thương rộng ra.
Cách dùng:
- Lấy 1 kg thân cây, bỏ lá, cạo hết rễ, rửa rạch, băm nhỏ cho vào 3 lít nước đun sôi trong 3 giờ. Lọc qua vài và cô lại còn 700ml dụng dịch. Khi đắp vào vết thương, bệnh nhân chỉ có cảm giác hơi xót như rửa nước muối ưu trương trong lần thay băng đầu tiên, những ngày sau sẽ hết xót.
- Không nên dùng dung dịch ráy leo lá rách quá đặc, nhất là dùng cao, vì khi đắp lên vết thương thuốc gây xót mạnh và gây phản ứng sưng đỏ tại chỗ.
- Sau khi rửa vết thương bằng nước muối hoặc bằng nước sắc ráy leo lá rách càng tốt, dùng vải gạc tẩm dung dịch dược liệu đắp lên vết thương, băng lại và cách 2-3 ngày thay băng một lần tùy mức độ mủ nhầy của vết thương.
- Nước sắc ráy leo lá rách chỉ dùng được trong vòng 5-7 ngày. Đặng Hanh Khôi đã cải tiến dạng bào chế, dùng tiện lợi và bảo quản được trong vòng một năm.
Ráy leo lá rách (thân, lá) 50g, dây tơ hồng, dây bìm bìm, dây đau xương mỗi loại 30g. Tất cả giã nhỏ, trộn với rượu 90° đủ xâm xấp, đắp. Ngày thay một lần dùng 5-7 ngày.
Chú ý: Cây bìm bìm chứ không phải cây bìm bịp (xương khỉ).
- Lá tươi chữa di mộng tinh, chân tay co quắp (theo kinh nghiệm đồng bào Tây Bắc).
- Thân, lá sắc uống chữa cảm cúm, đau khớp, đau mình (kinh nghiêm người dân Phú Yên).
- Cao ráy leo lá rách thêm đường uống chữa đau đạ dày, lỵ (kinh nghiệm của đồng bào Gia Lai).
- Cao ráy leo lá rách dùng phối hợp vái hoàng đằng chữa nấm gây bệnh ngoài da, với núc nác chữa tiêu chảy, kiết lỵ.
- Ở Trung Quốc, thân được dùng chữa đòn ngã tổn thương, gãy xương, rắn cắn, mụn nhọt sưng lở, ho gà trẻ em, hầu họng sưng đau, cảm mạo, tứ chi tê đau, lưng gối đau do phong thấp.