Thiên môn đông là cây thuốc quý có vị ngọt, đắng, tính đại hàn, vào hai kinh phế và thận. Có tác dụng dưỡng ầm, nhuận táo, thanh nhiệt, hoá đờm. Dùng chữa phế ung hư lao, thổ huyết ho ra máu, tiêu khát, nhiệt bệnh tân dịch hao tổn, tiện bí.
─────
- Tên thường dùng: Thiên môn đông
- Tên khác: Thiên môn, Dây tóc tiên, Co sin sương (Thái), Sùa sú tùng (Hmông), Mè mằn, Mằn săm (Tày), Dù mác siam (Dao), Duyên môn đông, Mãn đông (Nhĩ Nhã), Điên lặc (Bản Kinh), Thiên cức, Bà la thụ, Vạn tuế đằng (Bản Thảo Cương Mục), Kim hoa, Thương cức, Thiên văn đông.
- Tên khoa học: Asparagus cochinchinensis (Lour.) Merr.
- Họ khoa học: Asparagaceae
Chú ý: Phân biệt cây thiên môn (Asparagus cocjinchinensis (Lour.) Merr) với cây thiên môn chùm có tên khoa học là Asparagus racemosusWilld (tên tiếng anh là Satavar, Shatavari hoặc shatamull) thuộc họ Thiên môn (Asparagaceae).
Cây thiên môn leo lên đá
─────
Không khó để tìm kiếm cây thiên môn đông trong tự nhiên, đặc biệt là các tỉnh miền núi. Cây mọc hoang, leo lên đá hoặc những cây khác trong rừng, sống lâu năm, dưới đất có rất nhiều rễ củ mẫm hình thoi, hiện nay thiên môn được trồng ở nhiều nơi để làm dược liệu. Lá cây thiên môn màu xanh, dài nhọn 3 cạnh thực chất là cành biến đổi, lá thật của cây thiên môn rất nhỏ, nhìn như vẩy.
Đến mùa hè ở kẽ lá mọc hoa trắng nhỏ. Cây mang nhiều quả mọng bằng hạt đỗ tương, khi chín màu đỏ hoặc đen, người ta dùng hạt để ươm thành cây con.
─────
- Bộ phận dùng làm thuốc là phần rễ phình to thành chùm củ mẫm hình thoi. Cây được thu hái từ tháng 9 - 11 hàng năm. Chế biến theo nhiều cách khác nhau:
+ Rửa sạch, bỏ lõi, ủ mềm, thái phiến, phơi khô để dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Cạo vỏ, bỏ lõi, đồ chín, phơi khô, tẩm rượu 1 đêm, đồ lại, phơi khô dùng (Lôi Công Bào Chích Luận).
- Bảo quản nơi khô ráo, bởi rất dễ bị ẩm mốc.
Cành cây thiên môn biến đổi thành lá giả
─────
Thiên môn đông là cây thuốc quý có vị ngọt, đắng, tính đại hàn, vào hai kinh phế và thận. Có tác dụng dưỡng ầm, nhuận táo, thanh nhiệt, hoá đờm. Dùng chữa phế ung hư lao, thổ huyết ho ra máu, tiêu khát, nhiệt bệnh tân dịch hao tổn, tiện bí.
Kinh nghiệm dân gian dùng thiên môn đông làm thuốc chữa ho, lợi tiểu tiện và chữa sốt, thuốc bổ. Liều dùng 10-15g một ngày dưới dạng thuốc sắc hoặc nấu thành cao.
Những người tỳ vị hư hàn, tiết tả không dùng được (Xem cụ thể tại phần F dưới đây).
─────
Thuốc bổ toàn thân, bổ tinh khí:
- Nhân sâm...............4g,
- Thiên môn đông.....10g,
- Thục địa..................10g,
Cước 600ml. Sắc còn 200ml. Chia làm 3 lần uống trong ngày. Người ta quan niệm Nhân (người), thiên (trời) và địa (đất) là một khối thống nhất với nhau, do đó là 3 yếu tố (tài) của vũ trụ. Nay gộp ba yếu tố đó trong 1 thang thuốc.
- Thiên môn (bỏ lõi)....80g
- Sinh địa ..................80g.
Cho vào bình bằng gỗ cây Liễu, cho rượu vào rửa. Chưng chín rồi phơi 9 lần, đến lúc thật khô.
- Thêm Nhân sâm......40g, tán bột.
Lấy 9 quả Táo tầu, bỏ hột, giã nát, trộn thuốc bột làm viên, to bằng hạt Ngô đồng.
Mỗi lần uống 30 viên, với rượu nóng, trước bữa ăn, ngày 3 lần (Tam Tài Hoàn - Hoạt Pháp Cơ Yếu).
Thiên môn, tán bột. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 thìa với rượu (Thiên Kim phương).
Thiên môn, Thục địa, Hồ ma nhân, Tất cả 3 vị đem tán nhuyễn, trộn với mật ong, làm thành viên, to bằng hạt Long nhãn. Mỗi lần uống 20 viên với nước nóng (Trửu Hậu phương).
Củ thiên môn đông cạo vỏ
6. Da mặt bị nám đen:
Thiên môn, phơi khô, giã nát, trộn với mật ong làm thành viên. Hằng ngày, dùng thuốc viên pha với nước để rửa mặt. Dùng thuốc xát vào da cũng sẽ làm cho da dần dần tươi sáng, xinh tươi (Thánh Tế Tổng Lục).
7. Trị phụ nữ bị cốt chưng, trong xương nóng, buồn phiền, bứt rứt, mồ hôi trộm, miệng khô, khát mà không uống được nhiều, suyễn:
Thiên môn, Mạch môn, Ngũ vị tử, Ngưu tất, Thanh hao, Miết giáp, Sài hồ, Bạch thược, Địa cốt bì. Lượng bằng nhau, sắc uống (Hoạt Pháp Cơ Yếu).
Thiên môn để sống, giã vắt lấy nước cốt chừng 7 chén, rượu 7 chén, Mạch nha 1 chén, Tử uyển 160g. cho vào bình bằng đồng hoặc nồi bằng sành, nấu đặc thành cao hoặc làm thành viên. Mỗi lần uống to bằng quả Táo, ngày 3 lần (Trửu Hậu phườn).
Thiên môn, Mạch môn, Ngũ vị tử, nấu đặc thành cao, thêm ít Mật ong để dùng dần (Giản Tiện phương).
Thiên môn (bỏ lõi), Mạch môn (bỏ lõi), Huyền sâm. Lượng bằng nhau, tán bột, trộn mật làm thành viên, to bằng hạt Long nhãn. Mỗi lần ngậm 1 viên [Bài này do nhà sư Liêu Sở truyền cho] (Ngoại Khoa Tinh Nghĩa).
Thiên môn 1 cân, rửa nước, bỏ vỏ và lõi, lấy nguyên phần thịt khoảng 480g. Cho vào cối đá giã nát. Lấy Ngũ vị tử, rửa sơ qua, bỏ hột, chỉ lấy thịt 160g. phơi khô (đừng cho vào lửa). Cả hai thức cùng nghiền nát, trộn với hồ làm thành viên, to bằng hạt Ngô đồng. Mỗi lần uống 20 viên với nước trà nóng, ngày 3 lần (Giản Tiện phương).
Thiên môn, bỏ vỏ và lõi, nấu chín, ăn hoặc phơi khô, tán thành bột, luyện với mật làm thành viên, to bằng hạt Ngô đồng. Mỗi lần uống 20 viên với nước trà. Cũng có thể nấu lấy nước để rửa mặt (Thực Liệu Bản Thảo).
Quả cây thiên môn đông
Củ thiên môn đông
Thiên môn, bỏ lõi, phơi khô, giã nát. Mỗi lần dùng 1 thìa với rượu, ngày 3 lần (Ngoại Đài Bí Yếu).
- Thiên môn....12g,
- Ô mai...........20g, nấu cho kỹ, uống (Hoạt Nhân Tâm Kính phương).
─────
- Trong thiên môn đông có asparagin là một axit amin có tinh thể hình trụ, ngậm một phân tử nước, đun tới 100°C thì mất phân tử nước, độ chảy 234°- 235°C, tan trong nước nóng, chỉ hơi tan trong nước lạnh, 1g tan trong 1,47ml nước 20°. Với nước sôi, asparagin có thể thuỷ phân để cho axit aspartic và amoniac.
- Ngoài ra còn có chất nhầy. Có tài liệu nói còn có tinh bột, sacaroza. Các hoạt chất khác chưa rõ.
- Nước sắc Thiên môn có tác dụng giảm ho, lợi tiểu, thông tiện, cường tráng (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
- Tác dụng kháng khuẩn: Nước sắc Thiên môn có tác dụng ức chế liên cầu khuẩn A và B, Phế cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn vàng, trực khuẩn bạch cầu (Trung Dược Học).
- Tác dụng chống khối u: Nước sắc Thiên môn có tác dụng ức chế Sacroma -180 và Deoxygenase của tế bào bạch cầu ở chuột nhắt bị viêm hạch bạch huyết cấp hoặc viêm hạt bạch huyết mạn (Trung Dược Học).
+ Phế không có hư hỏa mà lại có hàn đàm hoặc đàm ẩm: cấm dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Sở dĩ nói Thiên môn nhuận được 5 tạng, kỳ thực nó nhuận được Phế, thì sau đó 5 tạng cũng được nhuận lây, thế thì Thiên môn cũng là một vị thuốc tốt để nhuận Phế vậy (Hòa Hán Dược Khảo).
+ Thiên môn bẩm thụ được khí sơ sinh đại hàn từ buổi bắt đầu mà sinh ra, cho nên nó được khí thuần âm của đất. Vị của nó tuy hơi đắng nhưng lại ngọt mà hơi cay, chính khí của nó là đại hàn, không độc, cần được nhiều chất ngọt hơn vì vị của nó hậu hơn khí, cho nên nó trừ được hư nhiệt của Phế và Thận (Cù Hy Ung).
+ Thiên môn nhuận táo, giúp ích châ phần âm, thanh được Phế kim, giáng được hỏa tà (Bản Thảo Cương Mục).
+ Mạch môn và Thiên môn đều phải bỏ lõi nhưng lấy nước mà sấp dần cho mềm thôi, không nên ngâm hẳn vào trong nước, mất hết tân dịch của nó đi. Khi khí vị đã hết, dùng vào thuốc sẽ không thấy công hiệu (Khấu Tông Thích).
+ Tính của Thiên môn trị được ho, khí suyễn, suyễn do phế nuy, hoặc phế ung, nôn ra mủ máu. Tính của nó trừ được nhiệt, phong, trị được ghẻ lở, dùng nó phải uống nhiều, uống lâu, nấu chín mà ăn, làm cho người ta béo tốt, xinh tươi, trắng trẻo, trừ được nội tích, các loại khí nóng(Chân Quyền).
+ Sợ cá Chắm, cá Chầy, cá Chép
+ Thiên môn có tác dụng thanh kim, giáng hỏa, ích cho Thận, cho nên thông được khí của Thận, lại tư bổ cho Thận. Chủ của 5 thứ dịch, dịch khô ráo thọnnng lại thành đờm, được thuốc nhuận thì Phế không bị táo mà đờm tự nhiên tiêu. Vì Mạch môn thanh Tâm để bảo Phế, Thiên môn giúp thủy để nuôi Phế, một đằng cứu ở trên, một bên giúp ở dưới nhưng đều bảo hộ cho Phế, nhưng trên dưới, hàn nhiệt khác nhau. Cho nên, đờm của thấp tôr thì Bán hạ làm chủ, đờm do táo hỏa thì Mạch môn làm chủ. Nếu Tỳ Vị hư hán mà uống lâu, uống độc vị thì sẽ sinh ra chứng hoạt trường, tiêu chảy thành cố tật, không trị khỏi (Dược Phẩm Vậng Yếu).
+ Thiên môn mập, nhiều chất béo, khí bạc, vị đậm, ngọt, tính hàn, có tác dụng thanh táo, bổ ích tân dịch, dưỡng âm, sắc trắng đi vào Phế. Đối với người Phế hư, ho lâu ngày, ho lao, phổi khô, đuwọc vị thuốc nhu nhuận, tăng nhiều nước dịch, làm cho nước dịch bị khô chuyển thành mềm nhuận, đó là cách trị bệnh theo chính trị. Chỉ có trường hợp ho nhiều hoặc Phế có hỏa tà, phần âm chưa hao tổn, tân dịch chua bị tổn thương mà đã vội dùng Thiên môn thì chỉ làm cho tà khí bị giữ lại (Đông Dược Học Thiết Yếu).
─────
Trên đây là đặc điểm nhận biết, tính vị, công dụng và những bài thuốc liên quan đến cây Thiên môn đông. Hy vọng đây sẽ là nguồn thông tin hữu ích cho bạn và mọi người. Bạn có thắc mắc gì cần được giải đáp, hãy tham gia CỘNG ĐỒNG YÊU THẢO DƯỢC để được giao lưu học hỏi và nâng cao kiến thức về cây thuốc Nam.
Đừng quên chia sẻ bài viết này để mọi người cùng biết bạn nhé!