Đại hoàng trị huyết ứ, thông kinh, luyện ngũ tạng

17/08/2020, 16:43 PM
  • Chia sẻ
  • zalo

Đông y rất coi trọng đại hoàng, đây là vị thuốc có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhưng nhiều nền y học trên thế giới đã sử dụng đến vị thuốc này bởi những công dụng rất tuyệt vời của nó.

────────

GIỚI THIỆU VỀ CÂY THUỐC ĐẠI HOÀNG

Để giới thiệu hết về cây thuốc này, quả thực rất dài và lan man, riêng phần tên gọi đã có thể mất 2 trang giấy. Tác giả xin tóm lược một vài nét khái quát để cho bạn đọc dễ nhớ về cây thuốc đại hoàng, như sau:

1. Tên gọi cây đại hoàng:

Ngoài tên gọi đại hoàng ra, cây thuốc này còn được gọi với nhiều tên gọi khác nhau như: Tướng quân, cẩm văn đại hoàng, Xuyên đại hoàng, Xuyên quân, Xuyên văn, chưởng diệp đại hoàng...

+ Đại hoàng: Vì có màu rất vàng, nếm vào miệng thấy lạo xạo và có bọt nước vàng.

+ Tướng quân: Vì có chức năng thay cũ đổi mới như dẹp loạn.

+ Cẩm văn đại hoàng: Vì khi cắt ra thấy có vân như gấm (là loại tốt).

+ Xuyên đại hoàng, Xuyên quân, Xuyên văn: Vì cây này có nhiều ở vùng Tứ Xuyên - Trung Quốc.

- Tên khoa học: Rheum palmatum Baill.

- Họ khoa học: Họ Rau Răm (Polygonaceae).

- Tên Trung Quốc: 大黄

2. Đặc điểm tự nhiên:

Cây đại hoàng có tên khoa học Rhem palmatum Baill là cây thân thảo sống lâu năm, thân hình trụ, bên trong rỗng, chiều cao chỉ chừng 1m, ngoài nhẵn. Lá mọc so le, có cuống dài, phiến lá hình tim to bằng cái quạt, đầu nhọn, mép khía răng thưa và sâu, dáng như chia thuỳ nông không đều, Hoa mọc thành chùm dài màu tím. Quả bế 3 cạnh. Rễ phình thành củ màu vàng, sẫm, mùi thơm hăng, đây cũng là bộ phận chính dùng làm thuốc.

Cây thuốc đại hoàng

Đại hoàng

Chú ý: Cần tránh nhầm lẫn với 2 cây cũng có tên đại hoàng là Dược dụng Đại hoàng (Rheum officinale Baill) và cây Đường cổ đặc đại hoàng (Rheum tanguticum Maxim. Et Regel - Rheum palmatum L. var Tanguticum Maxim).

3. Thu hái, chế biến

- Đại hoàng trồng được 3 năm thì thu hoạch được, bộ phận chính dùng là củ (thân rễ).

- Thu hoạch vào tháng 9-10, đào cả cây, cắt bỏ thân chồi, rễ con, rửa sạch.

- Để nguyên hay bổ đôi ra phơi cho mau khô.

Chú ý: Không nên dùng dao sắc để cạo vỏ ngoài vì làm như thế sẽ biến củ đại hoàng thành màu đen.

Cách chế biến đại hoàng:

Lấy cả củ ngâm vào nước lạnh, vớt ra rồi ủ vải ướt, sau 2-3 ngày bỏ ra xem thấy ở giữa lõi mềm tới rồi thì lấy xắt hoặc bào lát mỏng phơi khô. Khi dùng có thể dùng sống sao với rượu, sao cháy đen, hoặc chưng...tùy theo kinh nghiệm từng người.

Phép chế có nhiều cách:

- Chưng với rượu cho nát, phơi nắng, rồi tán bột, dùng mật trộn vào chế thành từng viên nhỏ, phơi khô.

- Dùng Đại hoàng phiến thêm rượu chưng mấy lần là được.

- Dùng sống hoặc sao với rượu, hoặc sao thành than hoặc hấp chế.

Đông ý đánh giá:

+ Đại hoàng sống làm thuốc tả hạ thanh nhiệt.

+ Khi tẩm, sao có tác dụng trị huyết bế.

────────

ĐẠI HOÀNG CHỮA BỆNH GÌ?

Đại hoàng vị đắng, tính hàn, qui kinh Tỳ, Vị, Đại tràng, Can, Tâm.

Trị kết tích ở trường vị do thực nhiệt, huyết ứ kết khối ở vùng bụng, bế kinh nguyệt, nôn ra máu, chảy máu cam, cuồng táo do thực hỏa, tiêu viêm ứ, bỏng nóng.

Chú ý: Vị này không nên sắc lâu, khi sắc thuốc được rồi mới bỏ vào uống.

Kiêng kỵ: Đàn bà có thai, phụ nữ thời kỳ có thai hoặc sinh đẻ. Cơ thể suy nhược, dùng rất cẩn thận. Bón người già, bón do huyết ứ cấm dùng.

Liều dùng: 4- 20g. Tán bột dùng nên giảm liều lượng, dùng ngoài tùy ý.

Dưới đây là những bài thuốc sử dụng vị thuốc đại hoàng:

1. Chữa các chứng bệnh tâm thần, điên loạn:

Bài 1: Bệnh tâm thần phụ nữ sau khi sinh, bại huyết, nói trước quên sau, tỉnh ít, tâm thần nhiều, bí đại tiện.

Đại hoàng: 10g; Sinh địa, Đào nhân: mỗi vị 12g; Đang quy, Hồng hoa, Xích thược, Ngưu tất: mỗi vị 9g; Sài hồ, Cát cánh, Xuyên khung: mỗi vị 6g; Cam thảo: 3g.

Cách sắc, uống như bài 1. Ngày 1 thang.

Nếu đi ngoài được, cơn tâm thần bớt thì bỏ Đại hoàng mà thay bằng Đảng sâm, Hoàng kỳ: mỗi vị 10g.

Sắc 15 phút. Chắt lấy nước còn bã, đổ thêm nước, sắc tiếp 20 phút. Lọc, bỏ bã. Trộn lẫn nước thuốc, chia đều uống. Ngày 1 thang

Bài 2: Bệnh tâm thần do phụ nữ bế kinh, tích máu, người thẫn thờ, khóc cười thất thường, đứng ngồi không yên.

Đại hoàng: 30g; Đại giả thạch, Thạch xương bổ, Long cốt (tươi): mỗi vị 15g; Đào nhân, Mộc hương: mỗi vị 12g; Uất kim, Bán hạ, Cam thảo: mỗi vị 9g; Sulfate magné (uống): 10g; Chu sa (nghiền nhỏ, uống); 1,5g. Cách sắc, uống như bài 1. Ngày 1 thang.

Bài 3: Tâm thần thất thường, mất ngủ, nằm mê, nói năng lảm nhảm, tinh thần hoảng loạn.

Đại hoàng: 30g; Mang tiêu (ngâm, uống), Sinh địa, Huyền sâm: mỗi vị 15g; Sài hồ, Cát cánh, Trần bì, Bán hạ, Mạch môn đông: mỗi vị 9g. Cách sắc, uống như bài 1. Ngày 1 thang.

2. Trị đàn bà kinh huyết không thông, xích bạch đới, Rong kinh, tiêu ra máu, các chứng lâm:

Cẩm văn đại hoàng 1 cân chia làm 4 phần: Một phần ngâm với 1 chén Đồng tiện, muối ăn 8g, ngâm 1 đêm, xắt mỏng phơi khô; 1 phần dùng rượu ngon tẩm 1 chén trong mộtngày, bào mỏng, lại lấy Ba đậu nhân 35 hạt sao với nó, tới khi Ba đậu vàng thì bỏ đi, chỉ lấy Đại hoàng; Một phần ngâm 1 chén nước với Hồng hoa 160g nấu một đêm, xắt mỏng, phơi khô; Một phần dùng 4 lượng Đương quy bỏ vào một chén giấm nhạt tẩm một đêm phơi khô, bỏ Quy đi, xắt lát mỏng, phơi khô. Tất cả tán bột, trộn với mật làm thành viên to bằng hạt ngô đồng. Mỗi lần uống 50 viên, lúc đói với rượu ấm. Chờ khi đi cầu ra những vật dơ là có hiệu nghiệm.

3. Trị huyết trệ, kinh bế và sản hậu ứ huyết, bụng dưới đau như cắt:

Đại hoàng 12g, Đào nhân 12g, Miết trùng 4g,sắc uống.

4. Trị đàn bà huyết tích đau:

Đại hoàng 40g, rượu 2 thăng, nấu thật sôi, uống thì đi cầu được.

5. Trị sản hậu ra huyết khối:

Bột Đại hoàng 40g, giấm ngon nửa thăng, nấu thành cao, làm thành viên, to bằng hạt ngô đồng. Mỗi lần uống 5 viên với giấm nóng, uống lâu sẽ khỏi.

6. Trị phụ nữ đau âm hộ:

Đại hoàng 40g, Dấm 1 thăng sắc uống.

7. Trị vú sưng:

Đại hoàng, Phấn thảo, mỗi vị 40g, tán bột, nấu với rượu ngon thành cao, để dành, bôi thuốc lên miếng lụa, dán vào. Trước khi dán phải uống 1 muỗng với rượu nóng. Sáng sớm sẽ đi ra những vật độc.

8. Trị các chứng lạ gây ra bởi đàm sinh ra, hễ ăn vào là mửa ra, đều do có đàm trong ngực:

Đại hoàng 40g, Cam thảo (chích) 10g, sắc với một tô nước còn lại nửa tô, phương pháp này để quét đàm ra hết, nếu bỏ Hà thiên cao vào làm hoàn thì lại càng tốt (Kim Quỹ Yếu Lược).

9. Trị trường vị có thực nhiệt, táo bón:

Đại hoàng 10 - 15g; Hậu phác, Chỉ thực mỗi vị 8g, sắc, hòa Mang tiêu 10g uống.

10. Trị mửa ra máu, chảy máu mũi, tâm khí bất túc:

Đại hoàng 80g, Hoàng liên, Hoàng cầm, mỗi vị 40g, sắc với 3 chén nước, còn 1 chén uống.

11. Trị bụng đau do trường ung, táo bón:

Đại hoàng 12g, Mẫu đơn bì 16g, Đào nhân, Đông qua tử, Mang tiêu mỗi thứ 12g, sắc uống.

12. Trị nôn ra máu, đau xóc lên:

Xuyên Đại hoàng 40g, tán bột. Mỗi lần uống 4g, sắc với 1 chén nước Sinh địa, còn nửa chén, uống (Giản Yếu Tế Chúng phương).

13. Trị nhiệt bệnh nói sảng:

Xuyên Đại hoàng 200g, xắt nhỏ, sao hơi đỏ rồi tán bột, dùng Lạp tuyết thủy 5 thăng nấu cô lại như cao. Mỗilần uống nửa muỗng càfê với nước lạnh.

14. Trị thắt lưng đau, chân đau do phong khí:

Đại hoàng 80g, xắt như con cờ, trộn một tí sữa vào, sao khô đừng để cho đen. Mỗi lần dùng 8g sắc với 3 chén nước lớn và 3 lát Gừng, uống lúc đói. Sau khi uống xổ ra vật dơ nhưmũi thì giảm đau.

15. Trị phong nhiệt tích ẩn bên trong, hóa đờm dãi, trị tức đầy, tiêu thực, hóa khí, dẫn huyết:

Đại hoàng 160g, Khiên ngưu tử một nửa sao, một nửa để sống, tất cả 160g tán bột, trộn với mật làm viên, to bằng hạt ngô đồng. Mỗi lần uống 10 viên với nước. Nếu cần lượng mạnh hơn thì có thể tăng lên 20 viên. Trong sách ‘Vệ Sinh Bảo Giám’ dùng Tạo giáp nấu cao, hòa với thuốc bột làm thành viên, gọi là ‘Cổn Đờm Hoàn’ hoặc ‘Toàn Chân Hoàn’. Ngày xưa, Kim Tuyên Tông uống có hiệu quả nên ban cho cái tên “Bảo An Hoàn”.

16. Bài thuốc ‘Cổn Đàm Hoàn’ trị đàm gây ra trăm thứ bệnh, chỉ trừ tiêu chảy, trước hay sau khi có thai thì cấm dùng:

Đại hoàng tẩm rượu chưng chín, sắc mỏng phơi khô 320g, Sinh hoàng cầm 320g, Trầm hương 20g, Thanh mộc thạch 80g và Diêm tiêu 80g, cho vào nồi, lấyđất sét trét kín, đốt cho đỏ lên rồi nghiền bột 80g. Các vị trên đều tán bột, lấy nước làm viên, to bằng hạt ngô đồng. Thường uống 10-20 viên, bệnh nặng uống 50-60 viên, nhẹ hoặc chậm uống 70-80 viên, cần gấp thì uống 120 viên với nước nóng, nằm yên đừng cử động để trục đàm trệ ở thương tiêu. Uống ngày đầu ra hết bào bọt, sau ra nhớt dãi, nếu chưa thì uống tiếp. Ngày xưa. Vương Ẩn Quân hàng năm dùng bài này để chữa lành hàng vạn bệnh.

17. Trị các loại bệnh ở tâm phúc, các loại bệnh hiểm nghèo:

Ba đậu, Đại hoàng, Can khương mỗi thứ 40g, tán bột, trộn với mật, quết một ngàn chày rồi viên bằng hạt đậu nhỏ. Mỗi lần uống 3 viên. Hễ khi trẻ con chạm vía làm tâm bụng căng đau như dùi châm, dao cắt, thở gấp, cấm khẩu, chết lăn quay, lấy nước ấm hoặc rượu cho uống với thuốc thêm 3 viên nữa, khi nào trong bụng chuyển sôi là được, tới khi tiêu hoặc mửa ra là tốt. Nếu miệng đã cấm khẩu, cậy răng đổ thuốc vào, bài này của Trọng Cảnh, ông Bùi Tú chức Tư Không đổi ra làm tán nhưng không hay bằng viên.

18. Trị trong bụng căng đầy, bỉ khối, có hòn cục:

Đại hoàng 400g, tán bột, 3 thăng giấm, 2 muỗng mật ong, trộn, nấu lên làm viên, to bằng hạt ngô đồng lớn. Mỗilần uống 30 viên với nước gừng sống, khi nào mửa hoặc đi tiêu là được.

19. Trị bụng sườn tích khối:

Phong hóa thạch hôi, tán bột, nửa cân, sao thật chín xong đợi nguội, bỏ bột Đại hoàng 40g sao chín, bỏ bột 20g Quế tâm vào, sao qua rồi cho giấm gạo vào làm thành cao, phết vào vải, dán lên nơi đau.

Hoặc dùng: Đại hoàng 80g, Phác tiêu 40g tán bột, lấy tỏi đâm nhuyễn trộn dán (hoặc gia thêm 40g A ngùy rất hay) (Đan Khê Tâm Pháp).

20. Trị tích tụ lâu ngày không khỏi, đại tiểu tiện không thông, có cảm giác như cái gì thốc lên trái tim, bụng sình căng đau, ăn không tiêu:

Đại hoàng, Bạch thược mỗi thứ 80g, tán bột, trộn hồ làm viên, to bằng hạt ngô đồng lớn, mỗi lần uống 40 viên, ngày 3 lần, hễ thấy chuyển là được.

21. Trị cam tích, tỳ tích, dùng cho người lớn cũng như trẻ con:

Cẩm vân đại hoàng 120g, tán bột. Lấy một chén giấm đổ vào trong nồi đất, nấu lửa nhỏ thành cao, bỏ trên miếng ngói phơi nắng và sương 3 ngày đêm, nghiền nát. Lại dùng Lưu hoàng 40g, Quan quế chi 40g, tán nhuyễn. Trẻ nhỏ dưới 10 tuổi, dùng 2g, người lớn 6g,uống với nước cơm. Kiêng tất cả các loại thức ăn sống lạnh, chỉ dùng cháo trắng nửa tháng, nếu điều trị một lần không lành, thì nửa tháng sau uống một lần nữa.

22. Trị trẻ nhỏ bị loa lịch, sài đầu hoặc bụng sình, rồi lại khỏi, phát sinh nhiều biến chứng:

Đại hoàng loại tốt 360g, bỏ vỏ, gĩa nát, tán bột. Lấy 3 thăng rượu ngon với gạo bỏ vào trong bát sành, đem nấu cách thủy thành cao, viên thành hoàn, tobằng hạt ngô đồng. Trẻ nhỏ dưới 3 tuổi: uống 1 lần 7 viên mỗi ngày. Nếu tiêu ra phân như nước mũi xanh đỏ là tốt, nếu uống vào không hạ thì phải thêm từ từ, nếu hạ quá phải giảm bớt. Kiêng ăn vật độc, mẹ còn cho con bú cấm uống (Thôi Tri Để phương).

23. Trị các loại nóng của trẻ nhỏ:

Đại hoàng nướng chín, Hoàng cầm mỗi thứ 40g tán bột, luyện mật làm viên, to bằng hạt mè lớn. Mỗilần uống 5-10 viên với mật ( Có thể thêm Hoàng liên gọi là ‘Tam Hoàng Hoàn’ - Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết).

24. Trị cốt chưng, tích nhiệt, vàng ốm dần dần:

Đại hoàng 4 phần, sắc với 5-6 chén Đồng tiện còn 4 chén, bỏ bã, uống 2 lần lúc đói.

25. Trị xích bạch trọc, lâm chứng:

Đại hoàng tốt, tán bột. Mỗi lần dùng6 phân. Dùng 1 cái trứng gà, soi thủng 1 lỗ, xong bỏ thuốc vào, khuấy đều, chưng chín, ăn lúc đói, không quá 3 lần.

26. Trị tướng hỏa bí kết:

Bột Đại hoàng 40g, bột Khiên ngưu 20g. Mỗi lần uống 12g. Có quyết lãnh thì uống với rượu, không có quyết lãnh mà bứt rứt ở tim thì uống với mật (Bảo Mệnh Tập).

27. Trị các chứng lỵ giai đoạn đầu:

Đại hoàng nướng chín, Đương quy mỗi thứ 12g, người mạnh dùng tới 40g, sắc uống cho đi cầu. Có thể thêm Binh lang (Tập Giản phương).

28. Trị nhiệt lỵ mót rặn:

Đại hoàng 40g, ngâm rượu nửa ngày, sắc uống cho đi cầu (Tập Giản phương).

29. Trị suyễn đột ngột muốn chết, không nói được, nôn ọe dãi nhớt:

Đại hoàng, Nhân sâm, mỗi thứ 20g, sắc với 2 chén nước còn 1 chén, uống nóng.

30. Trị chứng khí thống do huyết khô:

Cẩm văn đại hoàng, ngâm rượu, xắt mỏng, phơi khô 160g, tán bột. Giấm ngon 1 thăng, nấu thành cao, trộn thuốc bột làm thành viên to bằng hạt súng. Mỗi lần uống 1 viên với rượu trước khi đi ngủ, đại tiện thông 1-2 lần thì chất độc hồng hồng tự nhiên ra, đó là bài thuốc hay để điều kinh (có thể thêm Hương phụ).

31. Trị dịch hoàn sa xuống gây nên đau:

Bột Đại hoàng tẩm giấm, xức vào đó, khô thì thay cái mới.

32. Trị thấp nhiệt, chóng mặt không chịu nổi:

Đại hoàng sao rượu, tán bột. Mỗi lần uống 8g với nước trà, đó là trị tiêu có tính cấp thời.

33. Trị trẻ nhỏ não bị nhiệt, thường muốn nhắm mắt:

Đại hoàng 0,4g, ngâm với 3 chén nước 1 đêm. Một tuổi: uống nửa chén, còn dư thì bôi lên đầu, khô thì bôi tiếp.

34. Thuốc trị hen

Đại hoàng 100g để sống; Địa liền 100g sao vàng tán; Củ nén (Hành tăm) 50g sao vàng; Tỏi 30g đốt tồn tính; Vỏ chuối tiêu (chuối già) 100g đốt thành than; Than gỗ thông 100g. Tán bột, mỗi tối uống 1 thìa canh.

35. Trị răng đau do vị hỏa:

Ngậm một ngụm nước, lấy giấy cuộn lại, lấy bột Đại hoàng, đau bên nào thổi vào mũi bên ấy.

36. Trị chân răng thường ra máu, lở rụng dần và miệng hôi:

Đại hoàng ngâm với nước vo gạo cho mềm, Sinh địa hoàng, hai thứ đều xắt vòng quanh 1 lát, hợp cả hai thứ dán lên chỗ đau, một đêm là khỏi, chưa lành phải dán lại. Kiêng nói chuyện.

37. Trị răng đau do phong nhiệt:

Đại hoàng bỏ vào trong bình, đốt cháy tồn tính, rồi tán bột, xức buổi sáng và chiều.

38. Trị mắt đau, mắt đỏ nghiêm trọng:

Tứ Vật Thang thêm Đại hoàng sắc rượu uống (Truyền Tín Thích Dụng phương).

39. Trị miệng lở loét:

Đại hoàng, Khô phàn, 2 vị bằng nhau, tán bột, xức vào, ra nhớt dãi là tốt.

Vị thuốc đại hoàng

Vị thuốc đại hoàng

40. Trị Amidal viêm có mủ cấp tính:

Mỗi ngày dùng Đại hoàng (sống) 15g, trẻ nhỏ dùng 8 - 10g, hòa với 250ml nước sôi, uống nuốt dần, 2 giờ uống 1 lần, có thể uống 4 lần. Theo dõi 22 ca, kết quả tốt, bình quân 2-4 ngày thì khỏi.

41. Trị từ trên cao rơi xuống hoặc gỗ đá đè làm bị thương, các loại tổn thương làm ứ huyết, ngưng tích, đau không chịu được:

Rượu Đại hoàng nấu 40g, Hạnh nhân bỏ vỏ 21 trái, nghiền nhỏ, 1 chén rượu, sắc còn 6 phân, uống khi gà gáy tới sáng, sẽ tan ứ huyết.

42. Trị chấn thương ứ huyết ở bên trong căng đầy:

Đại hoàng, Đương quy, liều lượng bằng nhau, sao, nghiền nát. Mỗilần uống 16g với rượu ấm, chờ khi đi ra vật độc thì lành.

43. Trị chấn thương ứ huyết một chỗ làm sốt về chiều:

Đại hoàng bột, trộn nước gừng xức vào.

44. Trị dao cắt đứt da, đau nhức, táo bón:

Đại hoàng, Hoàng cầm tán bột, 2 vị bằng nhau, luyện viên với mật. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 10 viên, trước bữa ăn với nước.

45. Trị lở nứt vì lạnh:

Bột Đại hoàng trộn nước xức vào.

46. Trị bị đánh đập sưng đau:

Bột Đại hoàng trộn với giấm bôi vào.

47. Trị cứu gây nên lở loét vì độc:

Đại hoàng, Phác tiêu mỗi thứ 20g, tán bột, uống với nước, đi cầu được là đỡ.

48. Trị khỉ cắn mà vết thương lở độc:

Bột Đại hoàng trộn xức vào.

49. Trị mụn nhọt sưng nóng đỏ:

Bột Đại hoàng, trộn với giấm, bôi vào, khô thì thay cái mới, cho đến khi khỏi.

50. Trị sưng độc giai đoạn đầu:

Đại hoàng, Ngũ bội tử, Hoàng bá, lượng bằng nhau, tán bột,trộn với nước sông mới múc lên, bôi ngày 4-5 lần.

51. Trị đơn độc sưng đỏ cả người:

Đại hoàng mài với nước, bôi lên chỗ đau.

52. Trị phong cùi lở loét:

Đại hoàng nướng chín 40g, Tạo giáp thích 40g, tán bột. Mỗi lần uống 1 muỗng lúc đói, với rượu nóng, đi cầu được rồi, ra những vật dơ, xong dùng Hùng hoàng, Hoa xà hoặc bài ‘Thông Thiên Tái Tạo Tán’ mới dứt căn.

53. Trị bỏng nóng:

Đại hoàng thứ tốt, nghiền sống thành bột, trộn mật, bôi. Không những có tác dụng cầm đau mà khỏi bị sẹo nữa.

Hoặc: Đại hoàng tán bột trộn dầu mè xức nơi bị bỏng lửa, bỏng nước sôi và sưng tấy do chứng nhiệt.

54. Trị trung tiêu, thượng tiêu có nhiệt đàm sinh ra đau nửa đầu, các loại thuốc hầu như không có hiệu quả, tổn thương tới mắt:

Dùng Đại hoàng khuấy với mật ong và nước Trúc lịch, cửu chưng cửu sái, viên hồ bằng hạt mè mà uống lần 12g với nước Bạc hà. Lại trị tỳ vị ở trung tiêu bị thấp nhiệt bám xuống thận kinh, đến nỗi ăn no rồi đi ngủ thì bị di mộng tinh. Khi ngủ nên uống 3-16g với nước sắc Thăng ma, Trần bì để cho hết thấp nhiệt.

55. Trị thận suy mạn tính:

Bệnh viện Bắc Kinh, TQ báo cáo: dùng Đại hoàng 30-60g sống (nếu sao, dùng 20g), Mẫu lệ (nung) 30g, Bồ công anh 20g, sắc còn 600- 800ml. Thụt lưu đại trường mỗi ngày 1 lần. Bệnh nặng 2 lần. Làm sao cho bệnh nhân mỗi ngày tiêu 3-4 lần là được. Kết quả: Trong 20 ca, tổ A 10 ca ( Creatin in 10mg% ), triệu chứng cải thiện, urê giảm, kết quả rõ. Tổ B 6 ca ( Creatinin 10-15mg%), kết quả kém. Tổ C 4 ca ( Creatin in 15mg%), kết quả kém hơn.

56. Trị thương hàn phát ở âm kinh mà lại đưa xuống dưới, làm cho đầy tức ở dưới tim nhưng không đau, đè vào mềm, đó là chứng Bỉ

Dùng bài ‘Đại Hoàng Hoàng Liên Tả Tâm Thang’làm chủ, trong đó Đại hoàng 80g, Hoàng liên 40g. Sắc Đại hoàng cho thật sôi rồi lấy 2 bát ngâm với vị trước đó, chia ra 2 lần uống.

57. Trị xuất huyết tiêu hóa trên:

Dùng bột (viên hoặc xi rô ) Đại hoàng trị 890 ca xuất huyết tiêu hóa trên ( không bao gồm xuất huyết do xơ gan ), mỗi lần uống 3g, ngày 3 lần, kiểm tra phân thấy âm tính hoặc dương tính nhẹ mới ngưng uống. Trong thời gian điều trị, không dùng các loại thuốc cầm máu khác. Chảy máu nhiều thì truyền rnáu hoặc Gluco. Kết quả trong 890 ca có 868 ca máu cầm, tỉ lệ 97%. Bình quân thời gian cầm máu là 2 ngày, bình quân lượng Đại hoàng dùng cho mỗi bệnh nhân là 18g.

58. Trị tai biến mạch máu não:

Bệnh viện Trung y thành phố Tôn Nghĩa trị 72 ca tai biến mạch não ( não xuất huyết 11 ca, nhũn não 61 ca, có các triệu chứng: bình quân 4 ngày không đại tiện, rêu lưỡi vàng nhớt, hoặc khô. Dù ng Đại hoàng 12g, Mang tiêu 10g (hòa uống ), Chỉ thực ( hoặc Hậu phác 9g), Cam thảo 6g, sắc còn 200m, chia 2 lần uống, cứ 2 giờ 1 lần. Nếu hôn mê thêm An Cung Ngưu Hoàng Hoàn1-2 viên. Thường chỉ uống 1-2 lần là tỉnh, triệu chứng giảm, bệnh nhẹ hơn. Trong số 18 ca hôn mê, sau khi uống thuốc tỉnh 10 ca, không thay đổi 8 ca.

59. Trị tụy viêm cấp:

Tác gỉa dùng Sinh đại hoàng sắc, mỗi lần 30-60g. Cứ 1 - 2 giờ uống 1 lần cho đến khi bụng giảm đau, Amyase nước tiểu bình thường, khi bạch cầu giảm thì bớtliều dần. Đã trị100 ca, trừ các chứng nặng đều không dùng phương pháp hạ áp lực dạ dày, ruột, không nhịn ăn. Một số ít bệnh nhân truyền dịch hoặc dùng thêm trụ sinh. Sau khi bệnh ổn định, tiếp tục dùng viên Đại hoàng, mỗi lần 3g, ngày 2lần để củng cố. Kết quả: tòa n bộ bệnh nhân đều có kết quả. Bình quân sau 2 ngày, lượng Amylase trong nước tiểu bình thường, sau 3 ngày thì bụng hết đauvà các triệu chứng rối loạn ở bụng cũng hết. Sau 5 ngàythửnghiệm thấy SGPT hồi phục bình thường. Bình quân mỗi bệnh nhân dùng 450g Đại hoàng.

60. Trị ruột viêm hoại tử xuất huyết:

Tác gỉa dùng thuốc sắc Đại hoàng sống kết hợp truyền dịch cân bằng nước điện giải trị14 ca. Người lớn mỗi lần uống Đại hoàng sống 24-30g dưới dạng thuốc sắc, mỗi ngày 2-3 lần. Trừ 2 ca không khỏi, còn lại đều tốt. Thườn g sau 2-6 lần uống, bụng giảm đau rõ. Triệu chứng nhiễm độc được cảithiện, phân có máu và mũi chuyển thành phân lỏng.

61. Trị chứng lipid huyết cao:

Dùng cồn chiết xuất Đại hoàng làm viên 0,25g, trị 47 ca, mỗi ngày vào lúc sáng sớm, uống 3 viên, liên tục 3 tuần, kết quả tốt. Số bệnh nhân có chỉ số Triglyceride và b-Lipoprotein caođạt kết quả 76%.

62. Trị viêm gan vàng da cấp tính:

Dùng liều cao Đại hoàng trị 80 ca, người lớn dùng 50g, trẻ nhỏ 25-30g, sắc uống, mỗi ngày 1 lần,trung bìmh dùng 16g mỗi ngày. Kết qủa hồi phục chức năng gan, các triệu chứng cải thiện tốt, tỉ lệ có kết quả là 95%, tốt 81,25%.

 

 

 

 

 

Ý kiến bạn đọc