Cây cà độc dược có độc tính bảng A, có thể gây tử vong với 1 liều rất nhỏ, tuy là cây thuốc chữa bệnh nhưng hãy hết sức lưu ý về độc tính của nó để không xảy ra những tai nạn đáng tiếc xảy ra.
─────
- Tên khoa học: Datura melel L
- Tên thường gọi: Cà độc dược
- Tên khác: cà diên, cà lục dược (Tày), sùa tùa (H`mông), mạn đà la, hìa kía piếu (Dao).
- Họ khoa học: Họ cà Solanaceae
─────
Cây cà độc dược khiến người ta thường lầm tưởng như cây cà pháo dại, cà dại hoa trắng... Vì vậy, hãy chú ý những đặc điểm sau để nhận diện chính xác cây này trong tự nhiên.
Khác với các loại cây cùng họ cà, cà độc dược có quả hình cầu, nhiều gai nhọn, khi chín tự vỡ theo 3 - 4 đường, bên trong có nhiều hạt nhỏ, dẹt, màu nâu đen. Toàn thân cây có chứa chất độc. Chiều cao của cây từ 1 - 1,5m; cành non có sắc tố tím hay xanh lục và nhiều lông mịn, cành già có nhiều chấm nhỏ nổi rõ rệt. Phần gốc của thân hoá gỗ. Lá mọc so le, 2 mặt có lông mịn, phiến lá lệch, mép lượn sóng. Hoa to màu vàng nhạt, hình loa kèn, mọc riêng ở kẽ lá.
Mùa hoa, quả: Tháng 4 đến tháng 11.
Lá và quả cà độc dược
─────
Cây cà độc dược dùng hoa và lá bánh tẻ để làm thuốc. Lá được thu hái lúc cây sắp và đang ra hoa, hoa thu hái vào mùa thu. Cả hoa và lá đều phơi nắng hay sấy nhẹ đến khô để bảo quản được lâu.
Trong cây cà độc dược người ta tìm thấy: Alcaloid toàn phần (trong hoa : 0,25 - 0,60%, trong quả : 0,12%, Trong lá : 0,10 - 0,50%, trong rễ : 0,10 - 0,20%); Alcaloid: Scopolamin, hyoscyamin và atropin, norhyoscyamin, vitamin C.
─────
Trong thành phần có hyoxin và của atropin, đây là 2 chất gây nguy hiểm cho cơ thể, cụ thể:
- Atropin làm cơ vòng của mắt dãn ra, nên đồng tử dãn. Nhãn cầu dẹt lại, áp lực mắt tăng lên. Sự tiết nước bọt, mồ hôi, dịch vị, dịch ruột ngừng lại. Làm nở khí đạo khi khí đạo bị co thắt và phó giao cảm bị kích thích. Lúc bình thường, atropin không tác dụng. ít tác động trên nhu động ruột và co thắt ruột. Liều độc atropin tác động lên não làm say có khi phát điên, hô hấp tăng, sốt, cuối cùng thần kinh trung ương bị ức chế và tê liệt.
- Tác dụng của hyoxin gần giống atropin, nhưng làm dãn đồng tử trong thời gian ngắn hơn. Khác với atropin, là khi ngộ độc thì hyoxin ức chế thần kinh nhiều hơn là kích thích. Vì vậy hyoxin được dùng ở khoa thần kinh để chữa cơn co giật của bệnh Pakinxon, phối hợp với atrpin để chống say phi cơ hoặc tàu thủy, làm thuốc dịu thần kinh.
Hoa cây cà độc dược
─────
Vị cay, tính ôn, có độc, quy và kinh phế, tác dụng khử phong thấp, định suyễn dùng chữa ho, hen, thấp khớp, sưng chân, chống co thắt giảm đau lở loét trong dạ dày, ruột, chữa trĩ, say sóng, say máy bay. Ðắp mụn nhọt đỡ đau nhức. Lá hoa khô tán bột uống, hoặc thái nhỏ hút. Bột lá khô,
Liều dùng: Liều tối đa : 0,2g/lần; 0,6g/24 giờ. Còn dùng dạng cao, cồn.
─────
- Chữa hen: Hoa hoặc lá cà độc dược phơi khô thái nhỏ, 1 phần, kali nitrat 1 phần cho vào giấy cuộn thành điếu thuốc lá, ngày hút 1-1.5g vào lúc có cơn hen
- Tham khảo cách chữa viêm xoang, hen suyễn: Lấy bông thấm khoảng 1/2 cc rượu ngâm cà độc dược để ngửi cách mũi khoảng 7cm. Tuyệt đối không được đưa trực tiếp vào mũi, miệng vì rất độc.
Quả cà độc dược khi chín
─────
1. Kiêng kị:
- Những người bị bệnh tăng nhãn áp (glaucom) không nên dùng chế phẩm có Cà độc dược.
- Đối với lá chống chỉ định cho người hen suyễn do nhiễm trùng hô hấp, cao huyết áp, thiên đầu thống
- Không dùng cho người có thể lực yếu.
2. Lưu ý khi dùng:
- Biểu hiện khi bị ngộ độc cà độc dược: nhịp tim nhanh, loạn nhịp, giãn phế quản, giãn đồng tử, mờ mắt, khô môi họng, đến mức không nuốt được. Chất độc tác dụng vào hệ thần kinh, gây chóng mặt, ảo giác và mê sảng, sau đó hôn mê, tê liệt và chết.
- Giải độc cà độc dược: Loại bỏ chất độc ra khỏi cơ thể bằng cách gây nôn, rửa ruột càng sớm càng tốt, rửa dạ dày bằng nước chè đặc (đối với người lớn). Ủ ấm, giữ yên tĩnh cho người bệnh. Có thể dùng thuốc an thần nếu vật vã, kết hợp trợ sức nếu có biểu hiện bơ phờ, mệt mỏi. Theo dõi mạch, huyết áp thường xuyên.
- Chuyển viện kịp thời khi bị nặng.
- Đông y có bài thuốc để điều trị ngộ độc Cà độc dược ở mức độ nhẹ, bệnh nhân còn tỉnh táo hoặc sau cấp cứu bệnh nhân đã qua cơn nguy hiểm: Vỏ đậu xanh 400g, Kim ngân hoa 200g, Liên kiều 100g, Cam thảo 10g. Sắc với 3 bát nước, lấy 1 bát: uống dần từng ngụm làm nhiều lần cho đến lúc hết triệu chứng ngộ độc.