Cây râu hùm mọc hoang nhiều ở các vùng rừng rậm nước ta, thường được dùng để dùng ngoài chữa tê thấp, nhưng cần lưu ý toàn cây này có độc.
────────
Râu hùm còn có tên khác là Cẩm địa la, Củ dòm (Ba Na), Phá lủa (Tày), Nưa, Pinh đỏ (K’dong), Tên khoa học: Tacca chantrieri André, Thuộc họ Râu hùm - Taccaceae.
Râu hùm là cây thân thảo sống lâu năm, cao chừng 50 hoặc hơn. Thân bò ngang, có nhiều đốt. Lá mọc thẳng từ thân rễ, có phiến hình trái xoan nhọn, kích thước: dài 30-60cm, rộng 10-25cm, màu lục bóng, mép nguyên lượn sóng, cuống lá dài 15-30cm.
Cây râu hùm
Hoa màu tím đen mọc tụ họp thành tán trên một cán thẳng hay cong dài 10-15cm, các sợi bất thụ dài tới 25cm trông như râu con hổ, sư tử. Quả không tự mở; hạt có 3 cạnh, màu đỏ tím.
Chú ý: Tránh nhầm lẫn cây râu hùm với cây hồi đầu thảo.
Bộ phận chính dùng làm thuốc là thân rễ (chứa Saponin steroid, khi thủy phân cho diosgenin, taccaosid, b-sitosterol.). Có thể được thu hái thân rễ quanh năm, rửa sạch, phơi hay sấy khô làm thuốc.
────────
Râu hùm được nhân dân ưa chuộng dùng làm cảnh vì khi ra hoa trông rất đẹp và phù hợp để trong khuôn viên gia đình. Ngoài ra, râu hùm cũng là một vị thuốc trong Đông y.
Thân rễ có vị cay đắng, tính mát, toàn cây có độc. Có tác dụng thanh nhiệt giải độc, tiêu viêm chỉ thống, lương huyết, tán ứ. Được dùng chủ yếu để chữa thấp khớp, tê thấp.
Người Trung Quốc còn dùng cây này để trị viêm loét dạ dày, hành tá tràng, viêm gan, lao lực, huyết áp cao, bỏng lửa, lở ngứa...