Ở trên vùng miền núi, có một loài cây lá tựa lá trầu không nhưng có lông, thân có những chấm nhỏ xung quanh được người dân tin dùng để chữa những bệnh về xương khớp và đặt cho tên gọi rất dễ nhớ là dây đau xương.
─────
- Tên thường gọi: Dây đau xương
- Tên khoa học: Tinospora sinensis Merr
- Tên khác: Khoan cân đằng, (giúp xương cốt được thư giãn khoẻ mạnh).
- Họ khoa học: Thuộc họ Tiết đề Menispermaceae.
─────
Dây đau xương là cây thuốc nam quý, dây leo lên những cây khác trong rừng, chiều dài dây lên tới 10m, cành dài rũ xuống, cành non có lông, sau thì nhẵn lớp vỏ không sần sùi. Lá hình tim thoạt nhìn giống lá trầu không, nhưng có lông nhất là ở mặt dưới làm cho mặt dưới có màu trắng nhạt, phía cuốn tròn và hõm lại, phía đỉnh hẹp lại thành mũi nhọn, dài 10-20cm, rộng 8-10cm có 5 gân nhỏ, toả hình chân vịt. Thân và lá có vị đắng.
Hoa mọc thành chùm ở kẽ lá hoặc đơn độc, hoặc mấy lá chùm tụ lại, chùm dài khoảng 10cm, có lông măng màu trắng nhạt, quả khi chín có màu đỏ, có dịch nhày, hình bán cầu.
Lá dây đau xương
─────
Dây đau xương có vị đắng, tính mát, quy vào kinh can, có công dụng khu phong trừ thấp, thư cân hoạt lạc. Được dùng nhiều để trị các bệnh tê thấp, đau xương, đau người, còn được dùng làm thuốc bổ.
Liều dùng dây đau xương:
- Dùng dưới dạng sắc nước 10-12g kết hợp với các vị thuốc khác
- Dùng ngoài xoa bóp, thân cây có tác dụng mạnh hơn.
─────
Lá dây đau xương, quế, hồi hương, đinh hương, vỏ sòi, vỏ núc nác, gừng sống, lá canh châu, mủ xương rồng bà (Opuntia dillenii), lá thầu dầu tía, lá náng, lá kim cang, lá mua, huyết giác, củ nghệ, hạt trấp, hạt máu chó, lá bưởi bung, lá tầm gửi cây khế. Các vị trên giã nhỏ, sao nóng và chườm.
Lá dây đau xương 20g, rau sam 50g, lá thài lài 30g, lá tía tô 20g. Dùng tươi, giã nhỏ, vắt lấy nước uống, bã đắp.
Lá mướp đắng 10g; rễ cây trinh nữ sao, dây đau xương (tẩm rượu sao), rễ nhàu, rễ cỏ xước, vòi voi (sao), lá cối xay mỗi loại 8g; rễ ngũ trảo 5g, quế chi 4g, gừng sống 3g, dây thần thông 2g. Tất cả cắt nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày.
Dây đau xương 12g; cẩu tích, củ mài mỗi vị 20g; tỳ giải, đỗ trọng, cốt toái bổ mỗi vị 16g; thỏ ty tử, rễ cỏ xước mỗi vị 12g. Sắc hoặc ngâm rượu uống.
Cẩu tích, củ mài, rễ cỏ xước mỗi vị 20g; đỗ trọng, bổ cốt toái, tỳ giải mỗi vị 16g; thỏ ty tử, rễ gối hạc, dây đau xương mỗi vị 12g. Tất cả phơi khô, sắc vối 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày.
6. Chữa đau nhức xương khớp: viêm khớp vùng cổ và thắt lưng
1. Lấy dây đau xương giã nhỏ, trộn với ít nước đắp lên những chỗ đau nhức.
2. Thái nhỏ thân dây đau xương, sao vàng ngâm rượu với tỷ lệ 1/5. Ngày uống 3 lần, mỗi lần một cốc nhỏ. Phụ nữ hoặc những người không uống được rượu, có thể sắc với nước uống. Thời gian 15-20 ngày.
Video giới thiệu về dây đau xương:
- Dây đau xương có chứa nhiều Ancaloit.
- Trong dây đau xương, người ta đã tách và xác định cấu trúc một glucosid phenolic là tinosinen (I). (E) - 1 - (3 hydroxy - 1 - propenyl) - 3 - 5 - dimethoxyphenyl) 4 - 0 - beta - D apio furanosyl - (1 - 3) - beta - D glucopyranosid (CA, 122,1995 156312 b).
Trong cành người ta tìm thấy 2 chất dinorditerpen glucosid ; tinosinesid A và B. Tinosinesid A: [2S - (2alpha, 4a.alpha, 7beta, 9beta, 10beta, 10alpha.beta, 10b.alpha] - 10 acetoxy - 2 (3 furanyl) - 7 (beta - D - glucopyranosyloxy - dodecahydro - 4a, 9 - dihydroxy - 10b - methyl - 4H - naphto [2 - 1- C] pyra - 4 on. Tinosinesid B: (2 - 0 - acetyltinosinesid A)
- Dây đau xương có tác dụng ức chế hoạt tính gây co thắt cơ trơn của histamin và acetylcholin trong thí nghiệm ruột cô lập.
- Dây đau xương có ảnh hưởng trên huyết áp động vật thí nghiệm, có tác dụng ức chế hệ thần kinh trung ương biểu hiện trên các hiện tượng quan sát bên ngoài của động vật, có tác dụng hiệp đồng với thuốc ngủ, tác dụng an thần và lợi tiểu.