Cỏ xước còn được biết đến với tên gọi Ngưu tất nam, dược liệu có vị đắng, chua, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi tiểu được dùng trong các bài thuốc chữa gan, thận và xương khớp.
────────
Tên gọi khác của Cỏ xước: Ngưu tất nam, Nhả khoanh ngù (Tày), Thín hồng mía (Dao), Co nhả lìn ngù (Thái). Tên khoa học là Achysanthes aspera L. - A. aspera var. rubro - fusca Wight, thuộc họ Amaranthaceae
Cỏ xước là cây mọc hoang ở nhiều nơi, trên đường, bãi nương, đồi cỏ, nay cũng được trồng để làm thuốc. Là dạng cây thảo sống hằng năm hay hai năm, chiều cao trên dưới 1m. Lá mọc đối, mép lượn sóng, không răng cưa, cuống lá và thân có sắc tố tím. Rễ nhỏ, cong queo, bé dần từ cổ rễ đến chóp rễ, dài 10-15cm, đường kính 2-5mm. Hoa nhiều, mọc thành bông dài 20-30cm ở ngọn cây. Quả nang, có lá bắc tồn tại thành gai nhọn. Hạt hình trứng dài.
- Ra hoa vào mùa hè.
Cỏ xước được thu hái quanh năm chủ yếu vào mùa hè thu, rửa sạch, thái nhỏ, dùng tươi hay phơi khô dùng dần. Bộ phận dùng làm thuốc là toàn cây (thân, lá, rễ), nhưng rễ được dùng nhiều hơn.
Cây cỏ xước chưa ra hoa
Các thành phần chính có trong cỏ xước:
- Nước 81,9%; protid 3,7%; glucid 9,2%; xơ 2,9%; tro 2,3%; caroten 2,6%; vitamin C 2,0%.
- Trong rễ có acid oleanolic (sapogenin).
- Hạt chứa hentriacontane và saponin 2%, acid oleanolic, saponin oligosaccharide, acid oleanolic 1,1%.
────────
Y học cổ truyền đánh giá, cỏ xước (ngưu tất nam) có vị đắng, chua, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi tiểu.
Người ta đã biết là chất saponin trong rễ có tác dụng phá huyết và làm vón albumin. Cỏ xước còn có tác dụng chống viêm tốt ở cả giai đoạn mạn tính và cấp tính. Ở Ấn Ðộ người ta cho rằng cây có tính lọc máu, lợi tiểu, nước sắc rễ làm săn da, hạt gây nôn.
Dưới đây là những bài thuốc có vị thuốc ngưu tất nam:
Đâm cỏ xước (Ngưu tất) lá còn tươi pha nước dừa tươi uống.
* Phụ thêm: Trẻ con nóng tim gan, thường la khóc ban đêm, đâm lá cỏ xước cho uống làm mát.
Kinh nghiệm dân gian dùng Cỏ tranh, cỏ xước, cỏ roi ngựa, mã đề mỗi vị 1 nắm, sắc nước uống trong ngày rất tốt cho bệnh xơ gan cổ trướng.
- Kim tiền thảo 30g - Củ gấu 8g
- Màng trong mề gà 3g - Hải tảo 4g
- Dái nghệ vàng 4g - Vẩy tê tê 4g
- Rau má tươi 30g - Rễ cỏ xước 20g
- Hoạt thạch 12g
* Bào chế: Củ gấu, Hoạt thạch tán bột. Các vị khác nấu thành cao đặc, ngào bột làm viên.
* Chủ trị, cách dùng: Chữa bệnh sỏi mật, đau vùng hạ sườn phải, từng cơn lâu khỏi.
Liều kể trên dùng cho người lớn trong 1 ngày, trẻ em tùy tuổi.
* Chú ý: Nên uống kèm khác giờ hoặc cách ngày với bài Lục vị tân phương của cụ Lãn Ông.
Dùng lá cỏ xước giã nhỏ, hòa vào với lòng đỏ trứng gà đem hấp chín cho ăn, ăn 5 lần sẽ khỏi.
- Lá dung (hoa trắng) - Lá dạ cẩm
- Cỏ xước - Lá thủ ô trắng
Mỗi thứ 1 nắm sắc uống trong ngày.
- Cúc tần (dùng cành và lá) 18g sao
- Lá tía tô 8g sao - Lá và vỏ cây chân chim 18g sao
- Cây gối hạc 16g sao vàng - Dây đau xương 20g
- Cây lá lốt 16g - Cỏ xước (rễ) 12g sao qua
- Rễ cây tầm sọng 18g sao vàng
- Cỏ xước - Vòi voi - Lá dâu tằm
Mỗi vị 1 mớ bằng nhau, sao nấu uống như uống trà.
- Rễ đơn móng hổ 40g (sao vàng sém)
- Củ Tỳ giải 40g (không sao)
- Rễ cây Uy linh tiên 40g (sao vàng)
- Rễ cỏ xước 15g (sao)
- Nhục quế 5g - Hà thủ ô đỏ 35g (sao)
Chủ trị phong tê nhức, không đỏ, không sưng, không cử động được, sắc uống.
+ Bệnh nhẹ 3 thang khỏi
+ Bệnh nặng 5 thang khỏi
(Nếu dùng Hà thỏ ô trắng dễ bị xổ)
Cành lá cây cỏ xước chưa có hoa
- Cẩu tích 20g - Củ cốt khí, tùng tiết mỗi vị 16g
- Rễ cỏ xước, Uy linh tiên, Rễ cây tứ quý, Tang ký sinh mỗi vị 12g
Sắc với 3 bát nước còn 1 bát, chia uống 2 lần trong 1 ngày.
- Củ cốt khí (sao rượu), Rễ cây si, Dây đau xương, Rễ cỏ xước mỗi vị 40g
- Vỏ trút (tẩm giấm nướng), kê huyết đằng mỗi vị 16g - Quế chi 12g
Sắc với 4 bát nước, còn 1/3 cho uống 2 lần trong 1 ngày khi uống cần chiêu với một tí rượu.
Rễ cây Gắm (vương tôn) 80g; Rễ rung rúc (nam đằng), Dây chìa vôi (ngâm với đồng tiện 1 đêm, dùng củ thì ngâm 3 đêm), Rễ bươm bướm (hồ điệp căn), Rễ bưởi bung (cát bối), Rễ cỏ xước (ngưu tất), Bạch đồng nữ, Xích đồng nam mỗi vị 40g.
Chú ý:
- Phụ nữ thì dùng bạch đồng nữ, nam giới thì xích đồng nam.
- Huyết kém thì gia Kê huyết đằng, Cốt toái bổ.
- Co gân thì gia cây tầm xuân (tường vi căn) 40g.
- Thấp hàn gia Thiên niên kiện 20g, Quế chi 12g.
* Cách chế biến: Tất cả các vị rửa sạch, phơi khô, thái mỏng, cho dần vào hũ rượu nút kín, bỏ vào nồi nấu cách thủy 1 ngày. Nấu xong, đem ra để nguội, chôn xuống đất ba ngày đêm. Lấy lên cho uống, uống tùy sức, hơi ngà ngà say là thôi.
Hoặc các vị sao vàng hạ thổ, sắc lên chế rượu vào uống cũng được.
Dùng Cỏ xước, lá Diễn, xuyến chi, mỗi vị 30g, sắc uống.
Giã rễ Cỏ xước chế nước súc miệng và uống trong, bên ngoài giã lượng vừa đủ đắp.
Dường như có ai bắn mà không thấy hiện vật, người bị trúng bắt đầu ớn lạnh phát nóng, phiền não, đau xương, nếu không trị ngay thì sinh trùng ăn vào tạng phủ sẽ chết.
Gốc cành cỏ xước (thứ cành lá đỏ tía) 1 nắm, nước và rượu mỗi thứ 1 bát, giã vắt lấy nước cốt, ngày uống 3 lần, sẽ kiến hiệu.
Ngoài ra, dân gian cũng dùng cành lá Cỏ xước cho vào chuồng lợn nái cho lợn sinh đẻ dễ.
────────
Trên đây là đặc điểm tự nhiên và tác dụng chữa bệnh của cây cỏ xước. Nếu thấy hay, hãy chia sẻ bài viết này để nhiều người cùng biết bạn nhé. Cảm ơn bạn!